Cannabinoids là một nhóm các hợp chất dược lý đưa ra những tiềm năng trong ứng dụng thành các loại thuốc chống ung thư, dựa trên khả năng có thể hạn chế tình trạng viêm, tế bào tăng nhanh và tồn tại của tế bào của một số chất của nhóm này. Đặc biệt, bằng chứng mới cho thấy các chất chủ vận của thụ cảm cannabinoid được thể hiện trong các tế bào khối u có thể đưa ra một chiến lược mới để điều trị ung thư. Ở đây, chúng ta xem xét các nghiên cứu gần đây, điều làm gia tăng sự quan tâm đến việc phát triển và khám phá tính hiệu nghiệm, không độc và sự hình thành bất thường của cannabinoids trong điều trị ung thư. [Cancer Res 2008; 68 (2): 339-42]
Thụ cảm Cannabinoid: Tổng quan vắn tắt
Cannabinoid dùng để chỉ một nhóm các hóa chất được tìm thấy tự nhiên trong cây cần sa Cannabis sativa L. và bao gồm các hợp chất về cấu trúc hay dược lý tương tự như Δ (9) -tetrahydrocannabinol hoặc những liên kết với các thụ cảm cannabinoid. Những ý kiến trước đây cho rằng cannabinoids phát huy tác dụng sinh lý và hành vi của chúng thông qua sự tương tác không cụ thể với màng tế bào. Mặc dù tác dụng chống ung thư của cannabinoids đã được thể hiện sớm ngay từ năm 1975 với ung thư phổi Lewis (tham khảo. 1 và các tài liệu tham khảo trong đó), không có nhiều sự quan tâm mới sau khi phát hiện ra hệ thống cannabinoid và sự nhân bản các thụ cảm cannabinoid cụ thể (1). Các hiệu ứng đa dạng của cannabinoid hiện nay được biết đến như là làm trung gian thông qua việc kích hoạt các thụ cảm nhân đôi G-protein thường bị ràng buộc bởi một họ các phối tử (ligands) nội sinh, các endocannabinoids (1). Hai thụ cảm cannabinoid đã được mô tả và nhân bản vô tính từ mô động vật có vú: các thụ cảm CB1 “trung tâm” và thụ cảm CB2 “ngoại vi”. Thụ cảm CB1 được tìm thấy chủ yếu trong não, đặc biệt trong các hạch cơ bản (basal ganglia) và trong hệ bản tính (limbic system), bao gồm cả vùng hồi hải mã (hippocampus). Chúng cũng được tìm thấy ở tiểu não và trong cả hai hệ thống sinh sản của nam và nữ. Thụ cảm CB2 hầu hết được tìm thấy trong hệ thống miễn dịch, với mật độ lớn nhất là trong lá lách (1).
Phân loại Cannabinoids
Có ba loại cannabinoids. Cannabinoids có nguồn gốc thực vật như Δ (9) -tetrahydrocannabinol và cannabidiol xuất hiện duy nhất trong cây cần sa; cannabinoids nội sinh còn được gọi là endocannabinoids như anandamide và 2-arachidonoylglycerol được sản sinh ra trong cơ thể của con người và động vật; và cannabinoids tổng hợp, chẳng hạn như WIN-55, 212-2, JWH-133, và (R) -methanandamide (MET), được tạo ra trong phòng thí nghiệm, mang cấu trúc tương tự với cannabinoids tự nhiên hay nội sinh.
Cannabinoids trong điều trị ung thư: Tiến triển
Ung thư là một căn bệnh đặc trưng bởi sự phân chia không kiểm soát được của các tế bào và khả năng lây lan của chúng. Sự tăng trưởng không kiểm soát được này gây hại cho DNA, dẫn đến đột biến, khuyết tật trong chu kỳ tế bào, và cơ chế apoptosis tự huỷ. Do đó, các chất xúc tác có thể điều chỉnh apoptosis (tiến trình tự huỷ của tế bào đã đạt đến một độ tuổi nhất định hoặc tế bào không khoẻ nữa) để duy trì trạng thái ổn định của quần thể tế bào do ảnh hưởng đến một hoặc nhiều tín hiệu trung gian giúp khởi phát tiến trình tự huỷ (apoptosis) có thể hữu ích cho liệu trình điều trị mục tiêu của bệnh ung thư. Do đó, có một nhu cầu phát triển các mục tiêu mới và các tác nhân dựa trên cơ chế điều khiển bệnh ung thư. Một sự tiến bộ đáng kể trong việc sử dụng cannabinoid trong điều trị ung thư thông qua việc phát hiện ra lợi ích tiềm năng của các hợp chất này để nhắm vào và tiêu diệt các khối u. Vào đầu những năm 1970, cannabinoids đã cho thấy được khả năng ức chế sự phát triển khối u và kéo dài tuổi thọ của những con chuột mắc ung thư (adenocarcinoma) phổi Lewis (tham khảo. 1 và tài liệu tham khảo trong đó). Trong các nghiên cứu tiếp theo, cơ chế phân tử của những hiệu ứng này đã được phân tích, và đã tìm ra rằng cannabinoids ức chế sự tăng trưởng của tế bào khối u và gây ra tiến trình tự huỷ (apoptosis) bằng cách điều khiển tế bào khác nhau truyền tín hiệu trong u thần kinh đệm và u lympho, tế bào ung thư tuyến tiền liệt, vú, phổi, da, và tuyến tụy (2 – 7). Dữ liệu đáng khích lệ về sự ức chế tăng trưởng khối u bằng chất chủ vận thụ thể cannabinoid trong một số mô hình khối u động vật như chuột thí nghiệm bị lây nhiễm u thần kinh đệm C6 (tham khảo.1 và tài liệu tham khảo trong đó) và chuột athymic nude (chuột không có tuyến giáp) được cấy ghép (xenografts) các tế bào ung thư vú KiMol hoặc MBA-MD-231, đang bắt đầu xuất hiện (5). Các hiệu ứng đa dạng của cannabinoids trong điều chỉnh đường dẫn tín hiệu tế bào được mô tả trong hình 1. Một cáo cáo khó hiểu trái ngược với tính chất giế< /span>t choc của khối u, một số cannabinoids ở liều thấp cũng đã thể hiện sự kích thích tăng trưởng của tế bào ung thư trong ống nghiệm (tham khảo. 8 và tài liệu tham khảo trong đó). Mặc dù hiệu quả quan sát được của cannabinoids rất phức tạp và đôi khi mâu thuẫn, có bằng chứng mạnh mẽ cho thấy cannabinoids có thể được khảo sát với tư cách các chất hóa học trị liệu để điều trị ung thư (2- 7).
Hình 1.
Sơ đồ đường truyền tín hiệu cùng với thụ cảm cannabinoid tạo ra bởi các chất chủ vận của nó. Khi thụ cảm liên kết, chất chủ vận thụ thể cannabinoid ức chế sự tăng sinh tế bào (cell proliferation) thông qua sự ức chế protein kinase phụ thuộc cAMP (kinase: các enzyme tăng nhanh sự trao đổi phốt phát giữa nơi cho và nơi nhận), điều kích hoạt protein kinase mitogen-activated (MAPK). Kích thích sự tổng hợp ceramide qua hoạt hóa serine palmitoyltransferase (SPT) điều chính p8 tăng lên, dẫn đến sự cảm ứng tiếp theo của quá trình apoptosis. Thụ cảm chủ vận cannabinoid cũng kích hoạt đường truyền MAPKs và PI3K/Akt; kích hoạt ERK1/2 lâu dài dẫn đến sự ức chế cyclin kinase p27 / KIP1 cùng với điều chế phân tử điều tiết chu kỳ tế bào, dẫn đến ngừng giai đoạn G1 (G1arrest) và quá trình apoptosis. Các cơ chế đề xuất này dựa trên các tài liệu có sẵn và là tế bào cụ thể, và không phải tất cả các đường truyền được kích hoạt cùng một lúc. Nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để làm sáng tỏ các cơ chế chi tiết của hành động kích hoạt thụ cảm cannabinoid bằng chất chủ vận của chúng. CHOP, CAAT /
làm tăng ràng buộc protein đồng đẳng protein; PARP, poly (ADP) ribose polymerase; cdk, kinase phụ thuộc cyclin. PKA, kinase phụ thuộc cAMP.
Cannabinoids và u thần kinh đệm
Glioblastoma đa dạng (GBM) là một trong những hình thức ung thư khủng khiếp nhất và là loại u não nguyên phát ác tính thường xuyên xảy ra nhất. Hoạt động kháng u của hai chủ vận (agonists) thụ cảm cannabinoid, Δ (9) -tetrahydrocannabinol và WIN-55,212-2 (một hỗn hợp chủ vận CB1/CB2), đã được chứng minh có liên quan đến sự tích lũy của ceramide, dẫn đến sự kích hoạt lâu dài của kinase quy định tín hiệu ngoại bào (ERK1/2;. tham khảo 2 và tài liệu tham khảo trong đó). Cũng có báo cáo rằng cannabinoids down-regulated phosphoinositide 3-kinase (PI3K), protein kinase B (Akt), và đường dẫn tín hiệu ERK, và chức năng proapoptotic được kích hoạt của protein xấu, gây ra quá trình apoptosis (9). Đã chứng minh được rằng sự hoạt hóa có chọn lọc các thụ cảm CB2 do JWH-133 làm xúc tác cho quá trình apoptosis trong tế bào u thần kinh đệm bằng cách tăng cường ceramide tổng hợp de novo (tham khảo. 4 và tài liệu tham khảo trong đó). Ngoài ra, vai trò của protein p8 điều chỉnh stress (cũng được xem như là ứng viên gây di căn-1) và mục tiêu sau của nó là kích hoạt phiên mã yếu tố factor-4 (ATF-4), CAAT / gia tăng liên kết protein đồng vị protein, và tế bào chết có thể cảm ứng kinase (TRB3) được hiển thị như là một cơ chế của hoạt động kháng u của cannabinoids (2). Một giai đoạn thử nghiệm lâm sàng ở chín bệnh nhân bị tái phát glioblastoma đa dạng đã tuyên bố mộ</span >t hồ sơ an toàn hợp lý của Δ (9) – tetrahydrocannabinol cùng với hành động chống tăng sinh tế bào ung thư (10). Trái ngược với những phát hiện này, Massi và đồng sự (et al.) (11) cho thấy việc điều trị cannabidiol gây ra quá trình apoptosis trong tế bào u thần kinh đệm trong ống nghiệm và khối u suy thoái trong cơ thể thông qua hoạt hóa caspase và các loại phản ứng ôxy qua phương pháp cảm thụ độc lập. Mặc dù có rất ít nghiên cứu trái ngược về cơ chế hoạt động của cannabinoids, tất cả họ đều nhấn mạnh tầm quan trọng của cannabinoids trong điều trị ung thư. Do đó, các nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để làm sáng tỏ cơ chế tác dụng của cannabinoids trong điều trị ung thư.
Cannabinoids và ung thư tuyến tiền liệt
Sự hiện diện của các thụ cảm cannabinoid đã được thể hiện trong các mô tuyến tiền liệt và ung thư tuyến tiền liệt trong tế bào PC-3. Tuy nhiên, nó đã chỉ ra rằng việc điều trị của tế bào PC-3 với Δ (9) – tetrahydrocannabinol cảm ứng quá trình apoptosis thông qua phương pháp thụ cảm độc lập (12). Thật thú vị, một nghiên cứu khác từ cùng một nhóm đã đưa ra báo cáo rằng sự kích hoạt các thụ cảm cannabinoid trong tế bào PC-3 kích thích quá trình truyền dẫn PI3K / Akt với sự tham gia liên tục của Raf-1 / ERK1 / 2 và sự cảm ứng của yếu tố tăng trưởng thần kinh (tham khảo. 13 và tài liệu tham khảo trong đó). Gần đây chúng tôi đã chỉ ra rằng mức độ biểu hiện của cả hai thụ cảm cannabinoid CB1 và CB2 là cao hơn đáng kể trong các tế bào ung thư tuyến tiền liệt của con người so với các tế bào biểu mô tuyến tiền liệt bình thường. Dựa trên quan sát này, các tế bào LNCaP được điều trị với WIN-55,212-2, dẫn đến sự ức chế sự tăng trưởng tế bào và khởi phát quá trình apoptosis (ref. 4 và tài liệu tham khảo trong đó) và sự kìm hãm các tế bào trong giai đoạn G0-G1 của chu kỳ tế bào. Sự kìm hãm chu kỳ tế bào cảm ứng WIN-55,212-2 được liên kết với sự kích hoạt lâu dài của ERK1/2 (4). Để thiết lập mối liên quan trên cơ thể chúng ta trong các nghiên cứu trong ống nghiệm, chúng tôi chỉ ra được rằng trong mô hình cấy ghép (xenograft) CWR22Rν1, WIN-55.212 – chuột được điều trị đã cho thấy sự ức chế đáng kể trong sự phát triển khối u và sự sụt giảm đáng kể tiết của kháng nguyên tuyến tiền liệt cụ thể chứa trong huyết thanh (14). Nithipatikom và cộng sự (13) chỉ ra rằng khi gia tăng 2-arachidonoylgl nội sinh và noladin ether tương tự ổn định của nó gây ức chế sự xâm nhập của tế bào PC-3 và DU-145 của bệnh ung thư tuyến tiền liệt không phụ thuộc vào kích thích tố nam. Antiproliferative (sự chống tăng sinh) và các hiệu ứng apoptosis của cannabinoids anandamide nội sinh trong dòng tế bào ung thư LNCaP, DU145, và PC3 trong tuyến tiền liệt của con người đã được xác minh là trung gian qua sự điều chỉnh giảm của thụ cảm yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) và sự tích lũy ceramide (15). Thật thú vị, anandamide analogue (R) -methanandamide được chứng minh là có tác dụng mitogenic (sự phân chia tế bào thành hai tế bào con, thay thế khi tế bào chết đi) trên các tế bào LNCaP ở liều rất thấp (16).
Cannabinoids và ung thư vú
Đã chứng minh được rằng anandamide, có hiệu lực và chọn lọc, ức chế sự tăng sinh của các tế bào ung thư vú ở người. Hoạt động chống tăng sinh của anandamide đi kèm với sự suy giảm các tế bào trong giai đoạn S của chu kỳ tế bào và ức chế thụ cảm prolactin (tham khảo. 5 và tài liệu tham khảo trong đó). Ligresti, Moriello, và các đồng nghiệp (5) đã cho thấy hoạt động chống khối u của năm loại cannabinoids tự nhiên, cannabidiol, cannabigerol, cannabichromene, acid cannabidiol, và Δ (9) – tetrahydrocannabinol, và gợi ý rằng cannabidiol là chất ức chế sự tăng trưởng tế bào ung thư vú mạnh nhất. Cả cannabidiol và chiết xuất giàu cannabidiol cũng ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư vú MDA-MB-231 ở chuột thí nghiệm athymic nude (không có tuyến giáp). Trong một nghiên cứu khác, (R) – methanandamide giảm số lượng và kích thước của các u bướu di căn, và hiệu ứng này đã được đảo ngược bởi chất đối vận SR141716A của thụ cảm CB1. Tế bào (R) – methanandamide được điều trị cũng cho thấy sự giảm phosphoryl hóa của focal adhesion kinase (đầu mối bám dính kinase) – liên quan đến protein và Src, và tyrosine kinase liên quan đến sự di chuyển và độ bám dính, cho thấy rằng kích hoạt thụ cảm CB1 có thể đại di
ện cho một chiến lược điều trị mới để làm chậm sự phát triển của ung thư vú và ức chế sự di căn của nó lây lan trong cơ thể (17). Trái ngược với những phát hiện này, McKallip và cộng sự. (18) trước đó đã chỉ ra rằng Δ (9)-tetrahydrocannabinol tăng cường phát triển ung thư vú và di căn cụ thể là trong các tế bào có mức thụ cảm cannabinoid thấp bằng cách ức chế các phản ứng miễn dịch kháng u, cho thấy rằng việc tiếp xúc với cannabinoid có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú cũng như các loại ung thư khác mà không biểu hiện thụ cảm cannabinoid.
Cannabinoid và ung thư phổi
Số liệu người bệnh ung thư phổi sống sót gây tranh luận mạnh mẽ cho các phương pháp kiểm soát bệnh mới bằng các tác nhân có thể đảo ngược, kìm hãm, hoặc hoàn toàn ngăn chặn sự phát triển của khối u. Guzman (Tham khảo. 1 và tài liệu tham khảo trong đó) tuyên bố lần đầu tiên rằng sự tăng trưởng ung thư phổi Lewis đã được làm chậm lại do sự điều khiển của Δ (9) -tetrahydrocannabinol, và dựa vào các nghiên cứu trong ống nghiệm, sự ức chế tổng hợp DNA đã được xác định là một cơ chế cho những hiệu quả này. Một nghiên cứu khác cho thấy nồng độ của Δ (9) -tetrahydrocannabinol thể so sánh với những phát hiện trong huyết thanh của bệnh nhân sau khi điều khiển Δ (9)-tetrahydrocannabinol đã đẩy nhanh sự tăng sinh của các tế bào ung thư phổi (tham khảo. 8 và tài liệu tham khảo trong đó). Điều trị tế bào ung thư biểu mô phổi dòng NCI-H292 với sự tập trung nanomolar của Δ (9) -tetrahydrocannabinol dẫn đến tăng tốc sự tăng sinh tế bào phụ thuộc vào sự kích hoạt EGFR qua trung gian của ERK1/2 cũng như đưa tín hiệu PKB / Akt (tham khảo. 8 và tài liệu tham khảo trong đó). Gần đây, đã chứng minh được rằng khi xử lý Δ (9)-tetrahydrocannabinol sẽ gây ức chế yếu tố tăng trưởng biểu bì – gây ra hiện tượng phosphoryl hoá các tế bào ung thư phổi dòng ERK1 / 2, c-Jun-NH2-kinase1 / 2, và Akt ở người cũng như ngăn chặn sự di căn và tăng trưởng khối u ở chuột suy giảm miễn dịch kết hợp trầm trọng (8).
Cannabinoid và ung thư da
Khối u ác tính (Melanoma) chịu trách nhiệm lớn nhất cho những cái chết liên quan đến bệnh ung thư da trên toàn thế giới. Các thụ thể CB1 và CB2 được báo cáo là có mặt trong da thường và các khối u trong da của chuột và người. Trong nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy rằng sự kích hoạt của các thụ cảm cannabinoid gây ra cái chết dưới dạng tự hủy của tế bào biểu bì gây khối u, mà không ảnh hưởng đến tế bào biểu bì không biến đổi. Sự điều khiển WIN-55,212-2 hoặc chủ vận CB2 dòng JWH-133 chọn lọc đã được chứng minh là gây ức chế sự tăng trưởng của các khối u ác tính ở chuột thí nghiệm (nude mice) (tham khảo. 6 và tài liệu tham khảo trong đó). Một nghiên cứu khác cho thấy rằng sự kích hoạt các thụ cảm này làm giảm sự phát triển của khối u, sự hình thành mạch và sự di căn của khối u ác tính ở chuột, và ức chế sự tăng sinh bằng cách ức chế đường dẫn Akt và rất ít khả năng xảy ra phosphoryl hóa nguyên bào võng mạc trong các tế bào hắc tố (ác tính) (6). Hai nghiên cứu này cung cấp một cơ hội thú vị để khám phá việc sử dụng cannabinoids trong điều trị và quản lý của các khối u ác tính.
Cannabinoid và ung thư tuyến tụy
Ung thư tuyến tụy được xếp hạng là một trong những hình thức ung thư nguy hiểm nhất, và do đó, chiến lược mới nhằm cải thiện tiên lượng của căn bệnh chết người này được đảm bảo. Gần đây, người ta thấy rằng việc điều khiển cannabinoid dẫn đến quá trình apoptosis của các tế bào khối u tuyến tụy qua thụ cảm CB2 và ceramide-dependent up-regulation of p8 (p8 điều chỉnh phụ thuộc ceramide) và ATF-4 và các gen TRB3 liên quan đến stress (7). Một nghiên cứu khác cho thấy rằng chất đối kháng thụ cảm CB1 là AM251 gây ra cái chết của tế bào tuyến tụy MIAPaCa-2, xảy ra thông qua phương pháp thụ cảm độc lập (19). Mặc dù hai nghiên cứu mô tả các cơ chế tương phản trong tác dụng của cannabinoids, cả hai đều nhấn mạnh tầm quan trọng của cannabinoids trong điều trị ung thư tuyến tụy. Nghiên cứu chuyên sâu do đó được đảm bảo thực hiện để xác định các cơ chế hoạt động của tế bào chết gây ra bởi cannabinoids trong bệnh ung thư tuyến tụy.
Cannabinoid và Ung thư lympho (ung thư hạch)
Nghiên cứu cho thấy rằng việc tiếp xúc của các khối u lymphoma ở loài gặm nhấm EL-4, LSA, và P815 với Δ (9) -tetrahydrocannabinol trong ống nghiệm đã dẫn đến sự suy giảm đáng kể khả năng sống sót của tế bào và tăng quá trình apoptosis (tự huỷ), và đã giảm đáng kể trọng lượng khối u của chuột mang khối u EL-4, tăng quá trình apoptosis trong tế bào khối u, và tăng khả năng sống sót của những con chuột mang khối u (tham khảo. 20 và tài liệu tham khảo trong đó). Quan sát tương tự đã được thực hiện bởi Flygare và cộng sự (20) đã xử lý lớp vỏ tế bào lympho (MCL) các tế bào với các phối tử (ligand) thụ cảm cannabinoid và thấy được sự giảm khả năng sống sót của tế bào, trong khi các tế bào kiểm soát thiếu CB1 không bị ảnh hưởng. Gần đây, Gustafsson và cộng sự (3) báo cáo rằng thụ cảm cannabinoid – trung gian quá trình apoptosis gây ra bởi (R) -methanandamide và WIN-55, 212-2 trong MCL được gắn liền với sự tích lũy ceramide và p38. Những dữ liệu này cho thấy việc nhắm vào thụ cảm CB1 và CB2 do các chất chủ vận của chúng có thể có tiềm năng điều trị để chữa bệnh ung thư hạch.
Kết luận và triển vọng tương lai: Hứa hẹn
Cannabinoids, các thành phần hoạt động của marijuana và các chất trong tự nhiên và tổng hợp tương tự khác của chúng đã được khẳng định là tá dược hữu ích với các phác đồ hóa trị liệu thông thường để ngăn ngừa buồn nôn, nôn, đau và kích thích ăn uống. Trước khi phát hiện ra các hệ thống cannabinoid cụ thể và các thụ thể, cannabinoids đã được suy đoán rằng có thể tạo ra các hiệu ứng thông qua sự tương tác đặc hiệu với màng tế bào. Cannabinoids được chứng minh là độc nhất dựa trên hoạt động có mục tiêu của chúng lên các tế bào ung thư và khả năng thay thế các tế bào bình thường của chúng. Sự khác nhau về tác dụng của cannabinoids trong các dòng tế bào và mô hình khối u khác nhau có thể là do các biểu hiện khác biệt của thụ cảm CB1 và CB2. Như vậy, sự biểu hiện quá nhiều của thụ cảm cannabinoid có hiệu quả trong việc tiêu diệt các khối u, trong khi biểu hiện thấp hoặc không có của các thụ cảm này có thể dẫn đến tăng sinh tế bào và di căn bởi sự ức chế của các phản ứng miễn dịch kháng u. Báo cáo cũng chỉ ra rằng quản lý cannabinoid liều thấp đẩy nhanh sự tăng sinh của các tế bào ung thư thay vì gây ra quá trình apoptosis và, do đó, đóng góp vào tiến triển của bệnh ung thư. Cho đến nay, rất ít thông tin về cơ chế hoạt động của cannabinoids. Cần tiếp tục nghiên cứu sâu để làm sáng tỏ cơ chế hoạt động chính xác của cannabinoid trong các tế bào ung thư. Sự an toàn của phương pháp quản trị Δ (9)-tetrahydrocannabinol đã được xác định, và một chế độ tăng liều dùng chỉ ra rằng sự chuyển giao cannabinoid là an toàn và có thể đạt được mà không cần công khai tác dụng ảnh hưởng đến tinh thần, hành vi. Theo quan điểm của các hồ sơ an toàn hợp lý của hầu hết cannabinoids cùng với hoạt động antiproliferative (chống tăng sinh) của chúng trên các tế bào khối u, thử nghiệm lâm sàng là cần thiết để xác định xem cannabinoids có thể được sử dụng để ức chế sự phát triển khối u trong bối cảnh lâm sàng hay không. Nếu điều này có thể được thiết lập, khi đó người ta có thể hy vọng rằng sự hình thành cannabinoids không độc hại, không thường xuyên có thể được phát triển thành chất điều trị mới đối với việc chữa trị bệnh ung thư.
Lời cảm ơn
Hỗ trợ: Các công việc ban đầu từ phòng thí nghiệm của tác giả về cannabinoids và ung thư tuyến tiền liệt đã được hỗ trợ bởi Giái thường Cục phát triển ý tưởng Bộ Quốc phòng W81XWH-04-1-0217.
Tài liệu tham khảo
-
Guzman M. Cannabinoids: chất chống ung thư tiềm năng. Nat Rev Cancer 2003; 3:745–55.
-
Carracedo A, Lorente M, Egia A, và cộng sự Protein p8 liên quan đến stress là trung giang cho cannabinoid gây ra quá trình apoptosis trên tế bào khối u. Cancer Cell 2006; 9: 301–12.
-
Gustafsson K, Christensson B, Sander B, Flygare J. Thụ cảm Cannabinoid trung giang quá trình apoptosis gây ra bời R(+)-methanandamide và Win55,212–2 liên quan đến tích luỹ ceramide và kích hoạt p38 trong vỏ tế bào lymphoma.Mol Pharmacol 2006; 70: 1612–20.
-
Sarfaraz S, Afaq F, Adhami VM, Malik A, Mukhtar H. Chủ vận thụ cảm Cannabinoid gây ra quá trình apoptosis ờ tế bào ung thư tuyến tiền liệt ở người LNCaP proceeds through sustained activation of ERK1/2 leading to G1 cell cycle arrest. J Biol Chem 2006;281: 39480–91.
-
Ligresti A, Moriello AS, Starowicz K, và cộng sự. Hoạt động kháng u của việc cấy cannabinoids và làm rõ tác dụng của cannabinoid trong trên tế bào ung thư vú ở người. J Pharmacol Exp Ther 2006; 318: 1375–87.
-
Blazquez C, Carracedo A, Barrado L, và cộng sự. Thụ cảm Cannabinoid là mục tiêu mới cho việc chữa trị u ác tính. FASEB J 2006; 20: 2633–5.
-
Carracedo A, Gironella M, Lorente M, cộng sự. Cannabinoids gây ra quá trình apoptosis của các tế bào khối u tuyến tụy qua các mạng lưới nội chất các gen liên quan đến stress. Cancer Res2006; 66: 6748–55.
-
Preet A, Ganju RK, Groopman JE. Δ(9)-Tetrahydrocannabinol ức chế sự phát triển của yếu tố biểu mô – gây ra sự di cư của tế bào ung thư phổi trong ống nghiệm cũng như sự phát triển và di căn của nó trong cơ thể. Oncogene. Epub 2007.
-
Ellert-Miklaszewska A, Kaminska B, Konarska L. Cannabinoids điều chỉnh giảm đường dẫn PI3K / Akt và Erk và kích hoạt chức năng proapoptotic của protein xấu. Cell Signal 2005; 17: 25–37.
-
Guzman M, Duarte MJ, Blazquez C, và cộng sự. Một nghiên cứu lâm sàng thí điểm Δ9-tetrahydrocannabinol ở bệnh nhân tái phát glioblastoma đa dạng. Br J Cancer2006; 95: 197–203.
-
Massi P, Vaccani A, Bianchessi S, et al. Các cannabidiol không gây tác động đến tinh thần, hành vi khởi động sự kích hoạt caspase và sức ép oxy hóa trong các tế bào u thần kinh đệm của con người. Cell Mol Life Sci 2006; 63: 2057–66.
-
Ruiz L, Miguel A, Diaz-Laviada I. Δ9-tetrahydrocannabinol gây ra quá trình apoptosis trong tế bào PC-3 tuyến tiền liệt của con người thông qua một cơ chế thụ cảm độc lập. FEBS Lett 1999;458: 400–4.
-
Nithipatikom K, Endsley MP, Isbell MA, và cộng sự l. 2-arachidonoylglycerol: một chất ức chế mới với sự xâm lược của tế bào ung thư tuyến tiền liệt không phụ thuộc androgen. Cancer Res 2004;64: 8826–30.
-
Sarfaraz S, Afaq F, Adhami VM, và cộng sự. Thụ thể cannabinoid chất chủ vận WIN-55,212-2 ức chế sự hình thành mạch, di căn và sự phát triển của khối u của các tế bào ung thư tuyến tiền liệt nhạy cảm với androgen CWR22Rv1 cấy ghép ở chuột thí nghiệm thiếu tuyến giáp. Proc Am Assoc Cancer Res 2007; 48: 521.
-
Mimeault M, Pommery N, Wattez N, Bailly C, Henichart JP. Tác dụng chống tăng sinh và quá trình apoptosis của anandamide trong dòng tế bào ung thư tuyến tiền liệt của con người: ý nghĩa của thụ cảm yếu tố tăng trưởng biểu bì điều chính giảm và sản xuất ceramide. Prostate2003; 56: 1–12.
-
Sanchez MG, Sanchez AM, Ruiz-Llorente L, Diaz-Laviada I. Tăng cường biểu hiện thụ cảm androgen gây ra bởi (R) -methanandamide trong các tế bào tuyến tiền liệt LNCaP. FEBS Lett 2003; 555: 561–6.
-
Grimaldi C, Pisanti S, Laezza C, và cộng sự. Anandamide ức chế sự kết dính và di chuyển của tế bào ung thư vú. Exp Cell Res 2006; 312: 363–73.
-
McKallip RJ, Nagarkatti M, Nagarkatti PS. Δ-9-tetrahydrocannabinol tăng cường sự phát triển ung thư vú và di căn do ức chế các phản ứng miễn dịch kháng u. J Immunol 2005; 174: 3281–9.
-
Fogli S, Nieri P, Chicca A, và cộng sự. Các dẫn xuất của cannabinoid gây chết tế bào trong tế bào tuyến tụy MIA PACA-2 thông qua một cơ chế thụ cảm độc lập. FEBS Lett2006; 580: 1733–9.
-
Flygare J, Gustafsson K, Kimby E, Christensson B, Sander B. Các phối tử thụ cảm cannabinoid là trung gian ức chế sự tăng trưởng và làm chết tế bào ở lớp vỏ tế bào u lympho.FEBS Lett 2005; 579: 6885–9.
Nguồn: http://cancerres.aacrjournals.org/content/68/2/339.full
Dịch giả: Tan Vo
Xem thêm bài viết về Cannabinoids
Đơn Vị Tài Trợ: